Đổi mới tư duy, nhận thức nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới In trang
19/01/2023 04:39 CH

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, đánh dấu một giai đoạn mới của sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ở nước ta. Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới có chất lượng, hiệu quả, hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng CNXH ở nước ta, trước hết, cần phải đổi mới tư duy, nhận thức để có tư duy, nhận thức mới, đúng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1. Về đổi mới tư duy, nhận thức về cách tiếp cận đến việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1.1. Đổi mới tư duy, nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một dung quan trọng của đổi mới tư duy pháp lý, tư duy phát triển đất nước ở nước ta hiện nay

Tư duy pháp lý là sự phản ánh tích cực hiện thực pháp lý khách quan, là một quá trình, là một loại hoạt động tư duy, là sản phẩm trí tuệ của con người, được thể hiện dưới dạng các phạm trù, khái niệm, quan điểm pháp lý về những vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội để phục vụ phát triển xã hội. Kết quả của tư duy pháp lý là hình thành nên nhận thức, quan điểm, các ý tưởng về giải pháp pháp lý cho các vấn đề được đặt ra(1).

Tư duy pháp lý Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình phát triển, đổi mới ở Việt Nam. Tư duy pháp lý bao gồm các bộ phận hợp thành gắn liền chặt chẽ với nhau, tương tác và hỗ trợ cho nhau là tư duy pháp lý về xã hội, con người, quyền con người, chính trị, Nhà nước, pháp luật, dân chủ và tư duy pháp lý về những vấn đề khác. Tư duy pháp quyền là tư duy trung tâm, xuyên xuốt tư duy pháp lý(2).

Đổi mới tư duy pháp lý tức là đổi mới sự phản ánh tích cực hiện thực pháp lý khách quan, đổi mới quá trình nhận thức, đổi mới hoạt động tư duy về những vấn đề pháp lý nảy sinh trong quá trình phát triển xã hội, để giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước nói chung. Kết quả của đổi mới tư duy pháp lý là hình thành nên nhận thức pháp lý mới, quan điểm pháp lý mới, ý tưởng về giải pháp pháp lý mới để giải quyết những vấn đề được đặt ra. Đó là tư duy pháp lý mới, tư duy pháp lý sáng tạo. Trung tâm của đổi mới tư duy pháp lý là đổi mới tư duy pháp quyền(3).

GS.TS Võ Khánh Vinh, Ủy viên Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu tại Hội thảo quốc gia: Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 ngày 17/3/2022 (ảnh Đặng Phước)
GS.TS Võ Khánh Vinh, Ủy viên Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam phát biểu tại Hội thảo quốc gia: Những vấn đề mới, đột phá trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 ngày 17/3/2022 (ảnh Đặng Phước)

Đổi mới tư duy pháp lý là một bộ phận cấu thành quan trọng của đổi mới tư duy phát triển đất nước. Đổi mới tư duy pháp lý gắn liền chặt chẽ với đổi mới tư duy tổng thể về đổi mới, phát triển đất nước, với đổi mới tư duy chính trị, đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tư duy về an ninh con người, đổi mới tư duy về quốc phòng, an ninh quốc gia, đổi mới tư duy về các vấn đề xã hội, đổi mới tư duy về môi trường, đổi mới tư duy về hợp tác và hội nhập quốc tế, đổi mới tư duy về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.

Đổi mới tư duy pháp lý là yêu cầu, đòi hỏi, nội dung của đổi mới tư duy tổng thể về phát triển đất nước, là tiền đề, điều kiện và cũng là hệ quả của đổi mới tư duy về các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đổi mới tư duy pháp lý là nhân tố, động lực, nguồn lực quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển đất nước. Đổi mới tư duy pháp lý diễn ra trên tất cả các lĩnh vực pháp lý. 

Đổi mới tư duy pháp lý là một quá trình biến đổi toàn diện, sâu sắc, triệt để, là cuộc “đấu tranh” phức tạp giữa tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý cũ và tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của tư duy, tư tưởng, quan điểm, đời sống pháp lý, tất yếu, phải trải qua các giai đoạn khác nhau với nhiều bước phát triển kế tiếp nhau.

Đổi mới tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý, ngoài việc chịu sự tác động của những nhân tố xã hội, có quy luật phát triển riêng của mình. Theo logic đó, tiếp tục đổi mới tư duy, tư tưởng, quan điểm pháp lý để phục vụ tốt hơn sự nghiệp đổi mới đất nước là tất yếu, cần thiết, cấp bách.

Đổi mới tư duy, nhận thức về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, như nói ở trên là tất yếu, cần thiết, cấp bách, bao hàm ít nhất ba nội dung sau đây: (1) Đổi mới tư duy, nhận thức về cách tiếp cận đến việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; (2) Đổi mới tư duy, nhận thức về những vấn đề cơ bản, cốt lõi, đột phá với tầm nhìn chiến lược trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; (3) đổi mới tư duy, nhận thức về tổ chức thực hiện trên thực tế việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

1.2. Về đổi mới tư duy, nhận thức về cách tiếp cận đến việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là một tất yếu lịch sử, khách quan, nhiệm vụ lịch sử của Đảng ta, đánh dấu một bước phát triển mới của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bởi vì, đây là: 

- Vấn đề ở tầm Cương lĩnh, là một trong tám đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam, một trong tám phương hướng cơ bản của phát triển đất nước, là một trong những trụ cột của sự nghiệp xây dựng đất nước, cần phải có chiến lược tổng thể;

- Vấn đề hiến định, là vấn đề trường tồn, gắn liền với Đảng Cộng sản Việt Nam, với xã hội Việt Nam, với dân tộc, nhân dân Việt Nam, cần phải được cụ thể hoá về mặt chính trị; 

- Sự lựa chọn và khát vọng phát triển của nhân dân ta có được một Nhà nước chân chính, thực sự của chính mình, do chính mình làm chủ, vì tương lai của chính mình, cần phải kiên định và nhất quán thực hiện, vươn tới;

- Quy luật phát triển của Nhà nước ta, của xã hội Việt Nam: Từ nhà nước chưa pháp quyền sang nhà nước pháp quyền, từ hoàn thiện ít, chất lượng chưa cao đến hoàn thiện nhiều hơn, chất lượng cao hơn, phù hợp với các xu hướng phát triển nhà nước trên thế giới, cần phải tuân thủ;

- Nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, là nhiệm vụ lịch sử của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, cần phải tập trung nguồn lực để thực hiện;

- Khẳng định các thành tựu rất quan trọng của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, cần phải tiếp tục khẳng định và phát huy; 

- Để khắc phục các hạn chế, bất cập của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thời gian qua nhằm phát huy tốt nhất các giá trị cao cả của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam;

 - Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới: Bối cảnh toàn cầu hóa, kinh tế tri thức, kinh tế số, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự phát triển của tư duy pháp quyền toàn cầu... để phù hợp với nhu cầu, đòi hỏi phát triển mới.

Thứ hai, cần phải có tư duy, nhận thức đúng rằng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là công cuộc mới mẻ, rộng lớn, phức tạp, lâu dài của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Công cuộc này đòi hỏi phải thường xuyên tiến hành nghiên cứu lý luận một cách sâu rộng, toàn diện, tổng kết thực tiễn sâu sắc, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài một cách toàn diện, dự báo một cách đầy đủ, có căn cứ về các xu hướng phát triển của Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng để góp phần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thực tiễn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là công cuộc mới mẻ, chưa có tiền lệ ở nước ta, là vấn đề rộng lớn, liên quan đến tất cả các chủ thể trong xã hội, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đời sống nhà nước, đời sống cá nhân, cả ở trong nước lẫn ở trên phạm vi quốc tế, là vấn đề phức tạp, động chạm đến quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, đặc biệt kiểm soát quyền lực, quyền con người, quyền công dân, lợi ích của các ngành, các cấp, là công cuộc lâu dài, gắn liền với sự trường tồn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Do vậy, công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân cần phải được tiến hành tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa các bộ phận hợp thành; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình và bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi, thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì khẩn trương nghiên cứu, thực hiện thí điểm, tổng kết thực tiễn để làm rõ, từng bước hoàn thiện, mở rộng; những chủ trương đã thực hiện, nhưng thực tiễn khẳng định là không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả.

Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là tiếp tục khẳng định, làm rõ vai trò, sứ mệnh của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn liền với tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta nói chung, gắn liền với việc xây dựng, phát triển các thành tố cụ thể của tiến trình xây dựng CNXH nói riêng. Tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới không chỉ là một tất yếu lịch sử, khách quan, nhiệm vụ lịch sử của Đảng ta, đánh dấu một bước phát triển mới của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà còn để tiếp tục khẳng định, làm rõ vai trò, sứ mệnh của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là chủ thể chính, trung tâm trong xây dựng CNXH ở Việt Nam, một trong ba trụ cột phát triển đất nước; là chủ thể giữ vai trò trọng trách trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; là yếu tố đi cùng, có vai trò, sứ mệnh thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; là chủ thể trung tâm của hệ thống chính trị, có vai trò, sứ mệnh phát huy dân chủ XHCN; là chủ thể có vai trò, sứ mệnh đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hội nhập và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị, được đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới hệ thống chính trị nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Như vậy, tư duy, nhận thức mới về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là tư duy, nhận thức tổ hợp, tích hợp, thể hiện ở các phương diện sau đây: Khẳng định, tôn vinh, lan tỏa, hiện thực hóa, gia tăng các giá trị, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; tư duy, nhận thức kiến tạo phát triển, đổi mới sáng tạo mạnh mẽ một cách phù hợp với các điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, với đặc thù của Việt Nam trên cơ sở luận chứng vững chắc về lý luận và thực tiễn, chấp nhận các quan điểm mới hữu ích; tư duy, nhận thức về tầm nhìn chiến lược và đột phá phát triển; tầm nhìn xa hơn mang tính quy luật; có cách tiếp cận mới - cách tiếp cận Nhà nước pháp quyền; tìm kiếm các giá trị cốt lõi để đột phá phát triển; tư duy, nhận thức hiện đại hóa.

Đẩy mạnh hội nhập, tiếp nhận các giá trị phổ biến toàn cầu, phù hợp với thời đại; tư duy khát vọng phát triển, phát triển tiếp nối, trân trọng quá khứ, hướng tới tương lai. Tư duy, nhận thức đó đã được sử dụng để xác định và giải quyết ở tầm chiến lược các mối quan hệ cơ bản, cốt lõi, mang tính nguyên tắc ở bên trong và ở bên ngoài Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bằng phương thức pháp quyền.

2. Về đổi mới tư duy, nhận thức về những vấn đề cơ bản, cốt lõi, đột phá với tầm nhìn chiến lược trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.1. Cần phải có tư duy, nhận thức bao trùm, tổng thể, hệ thống, đa phương diện đến việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới

Tư duy, nhận thức đó được thể hiện ở các phương diện tư duy, nhận thức cụ thể sau đây: Chính trị - pháp lý; quyền lực; giá trị, pháp quyền; tổ chức, hoạt động và nhân lực; theo chiều ngang và chiều dọc.

- Phương diện tư duy, nhận thức chính trị - pháp lý. Phương diện này đòi hỏi phải tư duy, nhận thức một cách đúng đắn, sâu sắc rằng, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo, trước hết, là vấn đề chính trị cơ bản, quyết định, là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị(4).

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định và chỉ rõ: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một trong những đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam(5), một trong tám phương hướng cơ bản của xây dựng CNXH ở nước ta(6). Tiếp đến, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là vấn đề Hiến định.

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, tại Điều 2, khẳng định, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân(7).

Phương diện tư duy, nhận thức chính trị - pháp lý đặt nền móng, định hướng cho tư duy, nhận thức về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trước hết, cần phải dựa vào những quan điểm chính trị trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), dựa vào Hiến pháp năm 2013, dựa vào Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các văn kiện khác của Đảng.

 - Phương diện tư duy, nhận thức về quyền lực. Phương diện này đòi hỏi phải nhận thức đúng rằng, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, nếu không nói là mang tính bản chất, thì là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ quyền nhân dân, quyền lực chính trị (quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam), quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa chủ quyền nhân dân, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các lĩnh vực, phạm vi quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực trung ương và quyền lực địa phương, về kiểm soát quyền lực. Hiến pháp năm 2013, tại Điều 2, khẳng định, “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tiếp đến, tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013, khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội(8).

Phương diện tư duy, nhận thức về quyền lực đặt nền móng, định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ quyền lực trong tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều này có nghĩa rằng, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần phải giải quyết, cụ thể hóa mối quan hệ quyền lực giữa chủ quyền nhân dân và quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền lực chính trị, tức là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa các lĩnh vực, phạm vi quyền lực nhà nước theo chiều ngang và theo chiều dọc trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Phương diện tư duy, nhận thức về giá trị, pháp quyền. Tư tưởng, học thuyết về nhà nước pháp quyền được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người, tiếp đến, tư tưởng, học thuyết đó được đưa vào hiện thực xã hội, trở thành hiện thực nhà nước pháp quyền với các trình độ khác nhau ở các nước trên thế giới, đến một giai đoạn phát triển nhất định, tư tưởng, học thuyết về nhà nước pháp quyền, hiện thực nhà nước pháp quyền trở thành một giá trị độc lập trong xã hội - giá trị nhà nước pháp quyền. Sự ra đời của giá trị đó đánh dấu một bước phát triển mới của Nhà nước trên tất cả các phương diện của nó, đặc biệt tư duy về vị thế của pháp luật trong xã hội, trong cơ chế quyền lực chính trị, trong mối quan hệ với cá nhân. Tiếp đến, nhà nước pháp quyền gắn liền với các giá trị cao cả trong xã hội, đó là quyền con người, công lý, dân chủ, công bằng, tự do, đạo đức, văn minh, lợi ích hợp pháp, trật tự pháp luật và các giá trị xã hội khác. Đó là các giá trị pháp quyền cốt lõi phổ quát của xã hội đương đại, của xã hội loài người. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải là hiện thân của người thể hiện, thực hiện và hiện thực hóa các giá trị đó trong xã hội.

Các giá trị đó đã được ghi nhận, cụ thể hóa ở các mức độ khác nhau trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), trong Hiến pháp năm 2013, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các văn kiện khác của Đảng. Phương diện tư duy, nhận thức này đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam làm sao để trở thành hiện thân, thể hiện, thực hiện và hiện thực hóa từng bước, làm sâu sắc thêm và làm gia tăng các giá trị đó trong đời sống xã hội hiện thực, phục vụ sự phồn vinh, hạnh phúc của nhân dân.

- Phương diện tư duy, nhận thức về tổ chức, hoạt động và nhân lực. Nhà nước pháp quyền được tổ chức và vận hành thông qua tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm những người làm trong bộ máy đó, do vậy, cần phải có phương diện tư duy, nhận thức về cấu trúc tổ chức và hoạt động đến xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Hơn nữa, các thiết chế trong bộ máy nhà nước là các cơ quan thực hiện các quyền lực nhất định: Lập pháp, hành pháp, tư pháp, kiểm soát, là các cơ quan có trách nhiệm công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, là các cơ quan thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, do vậy, tư duy, nhận thức về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của các cơ quan cụ thể trong bộ máy nhà nước nói riêng đối với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là đương nhiên, tất yếu. Phương diện tư duy, nhận thức này đòi hỏi phải thiết lập được tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có chất lượng, phúc đáp yêu cầu phát triển đất nước.

- Phương diện tư duy, nhận thức theo chiều ngang và chiều dọc. Mọi vấn đề của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đều phải được tư duy, nhận thức vừa theo chiều ngang: Giữa các thể chế, thiết chế, phương thức vận hành quyền lực ở trung ương, vừa theo chiều dọc: Mối quan hệ quyền lực giữa trung ương và quyền lực địa phương; mối quan hệ quyền lực giữa các cấp ở địa phương. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện từ hai chiều: Từ chiều dưới lên và từ chiều trên xuống.

2.2. Cần phải có tư duy, nhận thức đúng về trục chính, trung tâm, xuyên suốt của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới

Thứ nhất, việc tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới là kiên trì, khẳng định, ghi nhận, hiện thực hóa bản chất, thực hiện trên thực tế, lan tỏa, gia tăng các giá trị cốt lõi, đặc trưng, nội dung cơ bản, đổi mới cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Bản chất đó khẳng định, ghi nhận tính chất dân chủ, pháp quyền, nhân văn sâu sắc, tính chất “xã hội chủ nghĩa”, được thể hiện ở các quan điểm, mục tiêu, giá trị, đặc trưng, nội dung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đó là khẳng định, ghi nhận, hiện thực hóa các giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như: Giá trị pháp luật, đặc biệt giá trị Hiến pháp; giá trị pháp quyền, các nguyên tắc pháp quyền; giá trị dân chủ, quyền lực nhân dân; giá trị phân công, kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; giá trị quyền con người; giá trị công lý, công bằng, bình đẳng; giá trị độc lập của Tòa án, của thẩm phán, hội thẩm; giá trị sự lãnh đạo của Đảng.

Tiếp đến, ghi nhận, hiện thực hóa 8 đặc trưng, và cũng là 8 tiêu chí đánh giá Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: (1) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; (2) Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; (4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; (5) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (6) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; (7) Độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; (8) Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Đó là đổi mới cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bao gồm đổi mới thể chế pháp luật, thiết chế quyền lực, phương thức vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Bản chất, các giá trị, đặc trưng, cơ chế vận hành đó được thể hiện, xuyên suốt trong toàn bộ Nghị quyết từ các quan điểm, mục tiêu, trọng tâm đến các nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thứ hai, các giá trị cốt lõi, đặc trưng đó là “điểm gặp tương hợp, mẫu số chung” trên sáu phương diện cơ bản sau đây:

(1) Trên phương diện lịch sử và đương đại, thể hiện dòng chảy liên tục, tính kết nối lịch sử và đương đại, sự gia tăng giá trị của Nhà nước pháp quyền.

(2) Trên phương diện tính phổ biến và tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, làm phong phú thêm giá trị về Nhà nước pháp quyền, là sự đóng góp của Việt Nam vào kho tàng tri thức nhân loại về Nhà nước pháp quyền.

(3) Trên phương diện lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

(4) Trên phương diện chính trị, pháp lý và khoa học của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

(5) Trên phương diện ý Đảng và lòng dân - khát vọng của nhân dân trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

(6) Trên phương diện tranh luận, thuyết phục và thống nhất/đồng thuận về các giá trị, đặc trưng đó. Thứ ba, bản chất, các giá trị cốt lõi, đặc trưng cơ bản và cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam xuyên suốt mọi cấp độ nội dung của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đó là:

 - Về nhận thức, lý luận: Đổi mới tư duy, nhận thức trên tất cả các phương diện về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

- Về thể chế: Hoàn thiện, đổi mới thể chế chính trị, thể chế pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Về thiết chế: Hoàn thiện, đổi mới tổ chức và phương thức vận hành quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Về tổ chức thực hiện: Đổi mới phương thức vận hành, hiện thực hóa bản chất, thực hiện trên thực tế các giá trị, đặc trưng, nội dung cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đặc biệt đổi mới phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, phương thức xây dựng và thực hiện pháp luật.

- Về dự báo: Nội dung của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xác định với tầm nhìn “trong giai đoạn mới”, gắn liền với các dấu mốc lịch sử trọng đại của đất nước, của dân tộc ta, đến giữa thế kỷ XXI.

- Về kinh nghiệm nước ngoài: Bám sát xu thế phát triển của thời đại, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

- Về hệ nội dung: Hệ nội dung của việc tiếp tục xây dựngvà hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện ở các quan điểm, mục tiêu, trọng tâm, các nhiệm vụ và giải pháp của việc tiếp tục xây dựngvà hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.

Thứ tư, các trọng tâm hay đột phá của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hướng đến 3 trọng tâm hay đột phá sau đây:

Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật.

Hai là, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh PCTN, TC; cải cách nền hành chính nhà nước; tăng cường phân cấp, phân quyền, xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Ba là, đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

3. Về đổi mới tư duy, nhận thức về tổ chức thực hiện và kế hoạch thực hiện trên thực tế việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới 

Việc ban hành Nghị quyết tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới mới chỉ là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là việc tổ chức thực hiện Nghị quyết đó trên thực tế. Đây là điều kiện đóng vai trò rất quan trọng để biến các giá trị, đặc trưng, nội dung được thể hiện trong các quan điểm, mục tiêu, trọng tâm, các nhiệm vụ và giải pháp của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới thành hiện thực, thành các kết quả cụ thể trong thực tiễn.

Các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội tổ chức tốt việc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”; xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết đồng bộ, kịp thời; xây dựng các đề án, kế hoạch cụ thể, sát đúng, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm.

Nhiệm vụ trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, là:

(1) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật.

(2) Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh PCTN, TC; tiếp tục đẩy mạnh cải cách nền hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với năng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

(3) Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Việc tiếp tục xây dựng và hoàn hiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đặt ra đối với các cơ sở nghiên cứu và đào tạo luật học ở nước ta những nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, đổi mới tư duy, nhận thức, cách tiếp cận nghiên cứu và đào tạo về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bao gồm:

- Đổi mới tư duy, cách tiếp cận nghiên cứu và đào tạo về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo hướng kết hợp đơn ngành với đa ngành, liên ngành, xuyên ngành, hợp ngành về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Luật học, chính trị học, triết học, chính sách học, xã hội học, quản trị học, so sánh học... Nhà nước pháp quyền không còn và không chỉ là đối tượng, khách thể nghiên cứu phần lớn của riêng luật học mà trở thành đối tượng, khách thể của nhiều ngành khoa học xã hội, khoa học lý luận chính trị. 

- Thống nhất nhận thức về những vấn đề cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Quan niệm, bản chất, giá trị, đặc trưng, nền tảng, tiền đề, điều kiện và những vấn đề khác của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

- Xây dựng, đưa nội dung về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của các cơ sở giáo dục và đào tạo: Môn học độc lập, nội dung lồng ghép vào các môn học, chương trình giáo dục và đào tạo tương ứng.

Thứ hai, tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, xây dựng hệ thống lý luận và thực tiễn đầy đủ, toàn diện về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bao gồm:

- Tăng cường nghiên cứu cơ bản về Nhà nước pháp quyền nói chung, về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng.

- Tăng cường tổng kết thực tiễn về quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Đẩy mạnh nghiên cứu về những vấn đề liên quan như: Xã hội pháp quyền, quản trị quốc gia, dân chủ và phát huy XHCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN và những vấn đề khác.

- Tiếp tục xây dựng hệ thống lý luận và thực tiễn đầy đủ, toàn diện về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

- Xây dựng và thực hiện  một chương trình nghiên cứu khoa học mới cấp quốc gia về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Thứ ba, tăng cường nghiên cứu ứng dụng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bao gồm:

- Tăng cường nghiên cứu để cung cấp những luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các đề án cụ thể để thực hiện các nội dung của Nghị quyết.

- Tăng cường nghiên cứu để tham mưu, tư vấn, phản biện khoa học đối với việc xây dựng và thực hiện các đề án cụ thể để thực hiện các nội dung của Nghị quyết.

- Đăng ký và nhận đặt hàng nghiên cứu, xây dựng các đề án cụ thể để thực hiện các nội dung của Nghị quyết.

Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, đổi mới một cách cơ bản chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo luật.

Thứ năm, tăng cường, chủ động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật.

(1) GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên): Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Nxb. Khoa học xã hội, H.2020, tr.20.

(2) GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên): Sđd. tr.20. (3) GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên): Sđd, tr.21.

(4) Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG-ST, H.2021, t.1, tr.174.

(5) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011).

(6) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011).

(7) Hiến pháp năm 2013.

(8) Hiến pháp năm 2013.

GS. TS. Võ Khánh Vinh
(Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)

Lượt xem: 1.743